Skip to content

Trường Đại học Cambridge – Anh quốc

Cập nhật vào 20/12

Đại học Cambridge là viện đại học nghiên cứu công lập tọa lạc tại Cambridge, Anh Quốc. Đây là viện đại học lâu đời thứ hai trong thế giới nói tiếng Anh (chỉ sau Đại học Oxford), và là viện đại học lâu đời thứ ba trên thế giới hiện đang hoạt động. Trong phần ghi học vị sau danh tính, tên của viện đại học thường là Cantab, viết tắt từ Cantabrigiensis (Cambridge trong tiếng Latin). Cambridge được xem là một trong những học viện uy tín nhất trên thế giới.

Theo những ký thuật cổ, Đại học Cambridge thành lập năm 1209 từ một hội đoàn của một số học giả khi họ rời bỏ Đại học Oxford sau một cuộc tranh cãi với người dân trong thị trấn. Hai “viện đại học cổ xưa” có nhiều điểm tương đồng nên thường được gọi bằng tên chung Oxbridge. Bên cạnh mối liên kết về văn hóa và các hoạt động thường ngày như là một phần lịch sử của xã hội Anh, giữa hai học viện này có sự cạnh tranh lâu dài và quyết liệt.

Hiện nay, Đại học Cambridge có 31 trường thành viên (college) và 6 học viện. Tất cả cơ sở giáo dục này tọa lạc tại những địa điểm riêng biệt rải rác trong thành phố Cambridge, bao gồm các khu vực chuyên biệt cung ứng cho sinh viên những tiện nghi về thể thao, nghệ thuật, và hoạt động xã hội. Cambridge là hội viên của nhiều hiệp hội đại học, cũng là một trong “Tam Giác Vàng” của nền đại học Anh. Có cả thảy 89 khôi nguyên giải Nobel là những người có mối quan hệ với Đại học Cambridge.

Trường Đại học Cambridge - Anh quốc

Lịch sử

Có thể truy nguyên thời điểm chính thức thành lập Đại học Cambridge đến năm 1231 khi Vua Henry III của Anh ban hành chứng thư công nhận nhà trường kèm theo các quyền như ius non trahi extra (quyền kỷ luật thành viên của viện) và được miễn các loại thuế, sau đó là một chỉ dụ năm 1233 của Giáo hoàng Gregory IX cho phép sinh viên tốt nghiệp từ Cambridge được “được giảng dạy khắp mọi nơi trong thế giới Cơ Đốc giáo”. Sau khi Giáo hoàng Nicholas IV miêu tả Cambridge như là một studium generale (cơ sở giáo dục đa hiệu, có cấp bằng thạc sĩ, và thu nhận sinh viên từ nhiều quốc gia) trong một lá thư năm 1290, danh hiệu này dược xác nhận bởi một chỉ dụ năm 1318 của Giáo hoàng John XXII,[12] viện đại học thu hút nhiều nhà học giả đến từ các đại học trên khắp châu Âu để nghiên cứu và giảng dạy.

Sau khi Đạo luật Đại học Cambridge năm 1856 chính thức cơ cấu tổ chức của viện đại học, các môn học như thần học, lịch sử, và ngôn ngữ đương đại được đưa vào chương trình giảng dạy. Richard Fitzwilliam của Trinity College hiến tặng nhiều tài liệu cho những giảng khóa mới về nghệ thuật, kiến trúc, và khảo cổ học. Từ năm 1896 đến 1902, Downing College bán một phần đất để cung ứng kinh phí xây dựng khu vực Downing Site gồm có các phòng thí nghiệm cho giải phẫu học, di truyền học, và khoa học trái đất. Trong giai đoạn này, khu vực New Museums Site cũng được xây dựng, ở đó có Phòng thí nghiệm Cavendish, sau dời về West Cambridge Site, và các khoa khác thuộc ngành hóa và y.

Thế chiến thứ nhất đã làm gián đoạn hoạt động của nhà trường khi 14 000 thành viên tham chiến, trong đó có 2470 người thiệt mạng.

Sau Đệ nhị thế chiến, viện đại học chứng kiến một giai đoạn tăng trưởng mạnh cả về số lượng sinh viên lẫn địa điểm học tập; có được điều này là nhờ những thành quả và tiếng tăm của nhiều nhà khoa học xuất thân từ Cambridge.470 người thiệt mạng.

Địa điểm

Viện đại học tọa lạc tại trung tâm thành phố Cambridge với lượng sinh viên chiếm tỷ lệ đáng kể trong thành phần dân số (gần 20%). Hầu hết những trường thành viên lâu đời hơn chiếm giữ những vị trí kề cận trung tâm thành phố và sông Cam, trên dòng sông này lâu nay người ta vẫn đi thuyền để chiêm ngắm vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên và những tòa kiến trúc.

Trường Đại học Cambridge - Anh quốc

Viện đại được chia thành những khu vực là địa điểm tọa lạc của những ban ngành khác nhau. Các khu vực chính là:

  • Addenbrooke’s
  • Downing Site
  • Madingley/Girton
  • New Museums Site
  • Old Addenbroke’s
  • Old Schools
  • Silver Street/Mill Lane
  • Sidgwick Site
  • West Cambridge

Trường Y Lâm sàng của viện đại học liên kết với Bệnh viện Addenbrooke, ở đó sinh viên phải trải qua thời gian thực tập trong ba năm sau khi đậu bằng cử nhân, trong khi khu West Cambridge được mở rộng đáng kể để phát triển những môn thể thao. Bên cạnh đó, Trường Kinh doanh Judge trên đường Trumpington từ năm 1990 cung cấp những khóa quản trị học và thường xuyên được tờ Financial Times ghi danh trong bảng xếp hạng 20 trường kinh doanh hàng đầu thế giới.

Do vị trí các khu vực là liền kề, lại nhờ địa hình của Cambridge khá bằng phẳng nên phương tiện di chuyển được ưa thích ở đây là xe đạp: một phần năm những chuyến đi trong thị trấn là bằng xe đạp.

Trường, Khoa, và Ban

Ngoài 31 trường thành viên, viện đại học còn có 150 ban, khoa, trường, tổ chức, và các cơ sở khác. Thành viên của những định chế này cũng là thành viên của các trường thành viên; họ chịu trách nhiệm điều hành toàn bộ chương trình học thuật của viện đại học.

Một “Trường” của Đại học Cambridge là tập hợp các khoa hữu quan và những đơn vị khác. Mỗi trường thành lập ban quản trị thông qua bầu cử – gọi là “Hội đồng” của trường – gồm có đại diện của những đơn vị cấu thành.

Hiện Cambridge có sáu trường:

  • Nghệ thuật và Nhân văn
  • Khoa học sinh học
  • Y học lâm sàng
  • Nhân văn và Khoa học Xã hội
  • Khoa học Vật lý
  • Kỹ thuật

Giảng dạy

Các ban của viện đại học chịu trách nhiệm tổ chức những buổi giảng bài trong khi các trường thành viên tổ chức những buổi thảo luận. Những môn khoa học có thêm những buổi thực tập ở phòng thí nghiệm, cũng trong trách nhiệm của các ban. Trong những buổi thảo luận, sinh viên được chia thành những nhóm nhỏ (thường từ một đến ba người) thảo luận dưới sự hướng dẫn của một giáo viên hoặc một nghiên cứu sinh.

Trường Đại học Cambridge - Anh quốc

Thường thì sinh viên được yêu cầu chuẩn bị chu đáo nội dung họ sẽ thảo luận với giáo viên cũng như trình bày những khó khăn họ gặp đối với bài giảng trong lớp. Bài tập thường là một tiểu luận về một chủ đề giáo viên chọn sẵn, hoặc một vấn đề giảng viên đã nêu ở lớp. Tùy thuộc vào môn học và trường thành viên, sinh viên có thể có từ một đến bốn buổi thảo luận mỗi tuần.

Đánh giá ngay
Back To Top